Bối cảnh Chiến_tranh_Hán-Đại_Uyên

Hãn huyết bảo mã

Mã đạp phi yến (馬踏飛燕), tượng ngựa bằng đồng đời Đông Hán
Ngựa Akhal-Teke, giống ngựa được xác định là Hãn huyết bảo mã hay Ngựa trời nổi tiếng

Theo tác giả Triệu Từ, so với những con ngựa thành Troia thể hiện "sự khuất phục quân sự", những con ngựa trời xứ Đại Uyên (ngựa Ferghana hay còn được gọi là Thiên Mã 天马) thể hiện "tốc độ và sức chịu đựng vượt trội", là giống ngựa chiến hoàn hảo.[1]

Hán Vũ Đế muốn tạo nên một lực lượng "kỵ binh bất khả chiến bại" để đánh người Hung Nô, vì quân Hung Nô suốt mấy thập kỷ liền thường xuyên quấy phá, cướp bóc vùng biên giới phía bắc của nhà Hán. Vì vậy, vào năm 139 TCN, Vũ Đế sai Trương Khiên làm sứ đi Tây Vực, mục đích là vừa kết giao với người Nguyệt Chi thành lập liên minh chống Hung Nô vừa nhân đó đi tìm giống ngựa thần Đại Uyên này.[1][2]

Khi đi sứ Tây Vực, tại khu vực sa mạc Gobi, Trương Khiên từng bị người Hung Nô bắt tới 2 lần, nhưng trong cả hai lần ông đều thoát được. Theo sách Hậu Hán Thư, mỗi năm nhà Hán lại gửi tầm 10 hoặc ít nhất là 5 hoặc 6 đoàn sứ giả đi Trung Á để mua ngựa.[1]

Hung Nô

Trong hàng thập kỷ, nhà Hán bị buộc phải thi hành "Hòa thân chính sách" bao gồm việc cống nộp và gả công chúa làm vợ của Thiền vu để tránh quân Hung Nô vào quấy nhiễu. Điều này thay đổi khi Hán Vũ Đế lên ngôi quyết tâm tiêu diệt Hung Nô.[2]

Đại Uyên

Cả Sử ký Tư Mã Thiên lẫn Hán thư đều mô tả người Đại Uyên là những cư dân đô thị hóa sống ở các thành phố có tường thành bao quanh và có "phong tục tập quán giống hệt với người Hy Lạp-Bactria", một vương quốc Hy Lạp đang cai trị xứ Bactria mà người Hán gọi là Đại Hạ thời đó ở miền bắc Afghanistan ngày nay. Người Đại Uyên cũng được mô tả là những nhà sản xuất rượu và cực kỳ yêu rượu vang.[4]

Người Đại Uyên là hậu duệ của người Hy Lạp đã được Alexandros Đại đế đưa tới định cư ở Ferghana vào năm 329 TCN (xem bài Alexandria Eschate) và đã phát triển rực rỡ dưới sự cai trị của các vương triều Hy Lạp của Seleukos và Hy Lạp-Bactria, cho đến khi họ bị cô lập bởi sự di cư của người Nguyệt Chi khoảng năm 160 TCN. Dường như cái tên "Uyển" hay "Uyên" (宛) chỉ đơn giản là phiên âm của từ Yavana hoặc Pali Yona trong tiếng Phạn, được sử dụng trong suốt thời cổ đại ở châu Á để chỉ định người Hy Lạp (người "Ionia"), do đó Đại Uyển nhiều khả năng có nghĩa là "người Đại Ionia" hoặc "người Đại Hy Lạp".[5]

Đại Uyên là một trong những quốc gia xa nhất về phía Tây gửi sứ đoàn phái đến triều đình nhà Hán. Tuy nhiên, không giống như sứ giả các nước khác, người Đại Uyên không tuân thủ các lễ nghi của người Hán, cư xử rất kiêu ngạo và hống hách, cậy thế ở xa nên họ chắc chắn là nhà Hán không làm được gì mình. Xứ Đại Uyên cũng nằm gần lãnh thổ Hung Nô vào thời điểm này. Người Đại Uyên khá tôn trọng người Hung Nô, vì Hung Nô từng đánh đuổi người Nguyệt Chi - kẻ thù của người Đại Uyển.